Scholar Hub/Chủ đề/#đậu nành/
Đậu nành (còn được gọi là đậu phụ, soya bean) là một loại cây thực phẩm thuộc họ đậu (Fabaceae) và là nguyên liệu chính để sản xuất nhiều sản phẩm đậu nành như ...
Đậu nành (còn được gọi là đậu phụ, soya bean) là một loại cây thực phẩm thuộc họ đậu (Fabaceae) và là nguyên liệu chính để sản xuất nhiều sản phẩm đậu nành như nước tương, đậu phụ, đậu Hà Lan, mỡ đậu nành, và các sản phẩm đậu nành tổng hợp khác. Đậu nành chứa nhiều protein, chất xơ, vitamin B, canxi và các khoáng chất quan trọng khác, là một nguồn dinh dưỡng phong phú và có nhiều lợi ích cho sức khỏe. Nó cũng được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực và là một nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng trên toàn thế giới.
Đậu nành (Glycine max) là một loại cây thực phẩm có nguồn gốc từ Đông Á và là một trong những loại cây trồng quan trọng nhất trên thế giới. Cây đậu nành là cây thân thảo, thường được trồng dưới dạng cây lớn, có thể cao từ 0,5 đến 2 mét.
Loại hạt mà đậu nành mang lại là cực kỳ phong phú. Đậu nành chứa hàm lượng protein cao, từ 36% đến 56%, giúp cung cấp một nguồn cung cấp dinh dưỡng giàu protein cho con người và động vật. Ngoài ra, đậu nành cũng có chất xơ, chất béo không no, vitamin B, canxi, sắt, magiê, và kẽm.
Đậu nành cũng có nhiều lợi ích cho sức khỏe. Có nghiên cứu cho thấy rằng tiêu thụ đậu nành có thể giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, tiểu đường, và bệnh ung thư. Đậu nành cũng được cho là có tác dụng làm giảm mức cholesterol và bảo vệ sức khỏe tim mạch.
Đậu nành cũng được sử dụng rộng rãi trong ngành thực phẩm và chế biến thực phẩm. Trong đó, nước tương là một sản phẩm quan trọng được làm từ đậu nành. Ngoài ra, đậu nành cũng được làm thành đậu phụ, đậu Hà Lan, mỡ đậu nành, bột đậu nành, và nhiều sản phẩm chế biến khác.
Đậu nành cũng là một nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng trên toàn thế giới. Nó là cây trồng thứ nhì (sau lúa mì) về mức độ trồng trọt rộng rãi và sản lượng trên toàn thế giới. Các quốc gia chủ yếu sản xuất đậu nành gồm Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Trung Quốc, và Ấn Độ.
Tóm lại, đậu nành là một loại cây quan trọng với hàm lượng protein cao và nhiều lợi ích cho sức khỏe. Nó được sử dụng rộng rãi trong ngành thực phẩm và là một nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng trên toàn thế giới.
Động học phản ứng chuyển ester của dầu đậu nành Dịch bởi AI Journal of the American Oil Chemists' Society - Tập 63 Số 10 - Trang 1375-1380 - 1986
Tóm tắtPhản ứng chuyển ester của dầu đậu nành (SBO) và các triglyxerides khác với các loại rượu, trong sự hiện diện của một chất xúc tác, tạo ra các este béo và glycerol. Di- và monoglycerides là các hợp chất trung gian. Các phản ứng này là liên tiếp và có thể đảo ngược. Các hằng số tốc độ đã được xác định cho mỗi phản ứng bằng một chương trình động học máy tính. Các ảnh hưởng của loại rượu, 1-butyl hoặc methanol (MeOH); tỉ lệ mol của rượu so với SBO; loại và lượng chất xúc tác; và nhiệt độ phản ứng đối với các hằng số tốc độ và bậc động học đã được khảo sát. Các phản ứng xu hướng có vẻ là bậc giả nhất hoặc bậc hai tùy thuộc vào điều kiện sử dụng. Các phản ứng đảo ngược có vẻ là bậc hai. Ở tỉ lệ mol của MeOH/SBO là 6:1, một phản ứng phân nhánh đã được quan sát. Năng lượng kích hoạt đã được xác định cho tất cả các phản ứng xu hướng và đảo ngược dưới nhiều điều kiện thí nghiệm khác nhau từ các đồ thị log k so với 1/T. Các giá trị dao động từ 8–20 kcal/mol.
Sự hóa cảm của chi vi khuẩn phát quang Pseudomonas đối với dịch tiết từ hạt đậu nành trong môi trường thí nghiệm và đất trồng Dịch bởi AI Canadian Journal of Microbiology - Tập 31 Số 6 - Trang 570-574 - 1985
Năm chủng Pseudomonas phát quang cư trú trên hạt (RW1 đến RW5) thể hiện khả năng hóa cảm đối với dịch tiết từ hạt đậu nành trong mao quản 1 μL được giữ trong 30 phút trong huyền phù vi khuẩn với mật độ 8.0 log CFU/mL trong phạm vi nhiệt độ từ 9 đến 41 °C. Dùng kỹ thuật thẩm tách (với ngưỡng phân tử bị giữ lại là 6000) dịch tiết làm mất sức hấp dẫn đối với RW1; trong khi đó, việc đun nóng dịch tiết ở 121 °C trong 15 phút không có ảnh hưởng gì. Một số amino acid có trong dịch tiết gây ra phản ứng hóa cảm từ RW1, và asparagine, threonine và valine với mức dộ như trong dịch tiết cũng hấp dẫn RW1 như dịch tiết. Không quan sát thấy sự hóa cảm của RW1 đối với đường có trong dịch tiết. RW1 đến RW5 chủ động di chuyển 1 cm về phía hạt đậu nành trong đất được chứng minh bằng một phương pháp mới. Một đột biến không di động của RW3 không di chuyển trong đất và không có sự di chuyển đáng kể nào được quan sát thấy khi không có sự hiện diện của hạt hoặc dịch tiết. Có thể rằng hiện tượng hóa cảm của Pseudomonas đối với dịch tiết hạt có thể là bước đầu trong việc vi khuẩn chiếm cư hạt và rễ trong đất.
#hóa cảm #Pseudomonas phát quang #dịch tiết hạt đậu nành #cư trú hạt #đất trồng
Phản ứng chuyển este hóa dầu đậu nành thô bằng chất xúc tác Novozym 435 để sản xuất biodiesel trong môi trường không dung môi Dịch bởi AI Biotechnology and Applied Biochemistry - Tập 40 Số 2 - Trang 187-190 - 2004
Khi dầu đậu nành thô được sử dụng làm nguồn sản xuất biodiesel, năng suất methyl ester thấp hơn đáng kể so với dầu đậu nành tinh chế. Sự khác biệt chính giữa dầu đậu nành tinh chế và thô được phát hiện là do hàm lượng phospholipid, acid tự do và nước, những yếu tố này có ảnh hưởng khác nhau đến sản xuất biodiesel. Hàm lượng phospholipid là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất; càng cao hàm lượng phospholipid trong dầu, năng suất methyl ester càng thấp. Hoạt độ nước tối ưu được phát hiện nằm trong khoảng từ 0.12 đến 0.44, và acid tự do có trong dầu đậu nành thô không cho thấy tác động tiêu cực đến quá trình chuyển este hóa enzym. Trong nghiên cứu ba bước methanol hóa dầu đậu nành thô để sản xuất biodiesel, chúng tôi nhận thấy rằng bước methanol hóa thứ hai nhanh hơn nhiều so với phản ứng ở bước đầu tiên. Dựa trên phát hiện này, đề xuất rằng việc tiền xử lý ngâm xúc tác lipase trong dầu giúp cải thiện hoạt động của enzyme đã được đưa ra. Bên cạnh đó, đã chứng minh rằng việc tiền xử lý ngâm xúc tác lipase trong dầu có thể cải thiện đáng kể cả tốc độ phản ứng và năng suất methyl ester. Năng suất methyl ester đạt được 94% bằng cách ngâm lipase trong dầu thô trong 120 giờ và con số này cũng cao ngang bằng với năng suất của dầu tinh chế.
#biodiesel #methyl ester #dầu đậu nành thô #phospholipid #chuyển este hóa enzym
Các hạn chế về nhập khẩu thức ăn biến đổi gen của EU: Tác động đến ngành chăn nuôi Tây Ban Nha, EU và toàn cầu Dịch bởi AI Spanish Journal of Agricultural Research - Tập 8 Số 1 - Trang 3-17
Trong thập kỷ qua, nhiều tranh cãi đã diễn ra xung quanh việc sử dụng công nghệ sinh vật biến đổi gen (GMO) trong nông nghiệp thương mại. Cụ thể hơn, có lo ngại rằng GMO có thể đưa vào chuỗi thực phẩm những dị ứng tố mới hoặc góp phần làm gia tăng sự kháng kháng sinh. Hiện tại, Liên minh châu Âu (EU) áp dụng chính sách không khoan nhượng đối với các nhập khẩu GMO "không được phê duyệt", trong khi quy trình phê duyệt không theo kịp với sự gia tăng các giống GMO mới. Trong các lĩnh vực chăn nuôi của EU, sự không tương thích rõ ràng này đe dọa làm gián đoạn nguồn cung cấp đầu vào thức ăn giàu protein (ví dụ, bột đậu nành) từ các quốc gia có quy định lỏng lẻo hơn về GMO. Sử dụng một khung mô hình cân bằng tổng quát tính toán đa vùng nổi tiếng, nghiên cứu này đánh giá một cách định lượng tác động của một lệnh cấm nhập khẩu giả định của EU đối với các giống đậu nành và ngô GMO không được phê duyệt đối với các ngành chăn nuôi, thịt và sữa. Mã mô hình được điều chỉnh mạnh mẽ để cải thiện việc phân loại các lĩnh vực nông nghiệp và sử dụng đất, trong khi một cơ sở dữ liệu thực tế được sử dụng để cập nhật cơ sở dữ liệu toàn cầu đến năm 2008, năm mà lệnh cấm giả định được thực hiện. Trong kịch bản "tồi tệ nhất", có tổn thất cạnh tranh đáng kể trong các lĩnh vực chăn nuôi, thịt và sữa của EU. Tại Tây Ban Nha, các tác động tiêu cực đặc biệt rõ rệt do tầm quan trọng của sản xuất heo trong nông nghiệp. Ngược lại, bảng cân đối thương mại của tất cả các vùng ngoài EU đều cải thiện, với những lợi ích thương mại đáng kể tại Mỹ và Brazil. Để kết luận, EU cần khẩn trương tìm một chiến lược lâu dài cho GMO nếu muốn hòa giải giữa tính chính trị kịp thời với các mối quan tâm kinh tế thực tiễn.
#GMO #EU #chăn nuôi #bột đậu nành #nhập khẩu #thịt #sữa
Tác động của quá trình ủ lên độc tính và khả năng chống đột biến của Sufu, sản phẩm lên men truyền thống từ đậu nành của Trung Quốc Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - - 2011
Trong nghiên cứu này, sufu, sản phẩm lên men từ đậu nành có dạng phô mai, được chuẩn bị bằng cách ủ các khối đậu phụ muối trong hỗn hợp koji gạo - đậu nành lên men với Aspergillus oryzae ở 35 °C trong vòng 16 ngày. Hỗn hợp này được giữ ở nhiệt độ phòng (khoảng 25 °C) thêm 1 tháng nữa. Tính chất gây đột biến và khả năng chống đột biến của chiết xuất methanol từ đậu phụ không lên men và sufu đối với 4-nitroquinoline N-oxide (4-NQO), một chất gây đột biến trực tiếp, và 3, 2-dimethyl-4-amino-biphenyl hydrochloride (DMAB), một chất gây đột biến gián tiếp, trên chủng Salmonella typhimurium TA 100 đã được khảo sát. Kết quả cho thấy chiết xuất methanol từ đậu phụ không lên men và mẫu sufu thu thập tại các thời điểm ủ khác nhau không có độc tính hay khả năng gây đột biến, nhưng lại thể hiện khả năng chống đột biến đối với các chất gây đột biến trong khoảng liều đã khảo sát. Thông thường, hiệu ứng chống đột biến phụ thuộc vào liều lượng được ghi nhận trong khoảng liều đã xét. Khả năng chống đột biến của chiết xuất đậu phụ đối với 4-NQO và DMAB đã tăng cường đáng kể (P < 0.05) thông qua quá trình lên men. Nói chung, khả năng chống đột biến của chiết xuất sufu tăng lên với thời gian ủ kéo dài. Thêm vào đó, chiết xuất từ đậu phụ và sufu không lên men, không tính đến thời gian ủ, đã cho thấy khả năng chống đột biến cao hơn (P < 0.05) đối với DMAB so với 4-NQO.
#sufu #đậu nành #Aspergillus oryzae #khả năng chống đột biến #độc tính #4-nitroquinoline N-oxide #3 #2-dimethyl-4-amino-biphenyl hydrochloride
Tổng hợp và đặc trưng xúc tác enzymlipase cố định trênnano từ tính ứng dụng cho quá trình chuyển hóa biodiesel từ dầu đậu nànhTrong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã tổng hợp các hạt nano từ tính chitosan-Fe3O4 bằng phương pháp đồng kết tủa sử dụng glutaraldehyde là tác nhân tạo liên kết ngang cho cố định hóa enzyme lipase. Enzyme lipase được cố định trên cơ sở tạo liên kết peptit thông qua cầu nối là glutaraldehyde với các hạt nano từ tính chitosan-Fe3O4. Đặc trưng của hệ xúc tác được phân tích bằng các phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD), hiển vi điện tử quét (SEM), hiển vi điện tử truyền qua (TEM) và phổ hồng ngoại (FT-IR). Qua đặc trưng của phương pháp cho thấy, enzyme lipase được cố định trên các hạt nano từ tính, các hạt có dạng vi cầu, với kích thước từ 12 - 15nm. Hệ xúc tác tổng hợp được sử dụng cho quá trình trao đổi ester hóa chéo thành methyl ester với độ chuyển hóa 93% trong 30 giờ phản ứng, ở nhiệt độ 40oC, sử dụng methanol cho quá trình phản ứng theo 3 giai đoạn và tỷ lệ mol dầu/methanol là 1:4.
#-
KHẢO SÁT TIỀM NĂNG SẢN XUẤT ĐẬU TƯƠNG Ở AN GIANG VỚI SỬ DỤNG MÔ HÌNH CERES-SOYBEANTạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 11a - Trang 143-151 - 2009
CERES-Soybean là một trong số mô hình cây trồng của DSSAT được thiết kế nhằm mô phỏng các tiến trình sinh trưởng, quản lý cây trồng,? trong những điều kiện đất đai và thời tiết để tìm giải pháp nâng cao năng suất đậu tương một cách có hiệu quả. Kết quả điều tra cho thấy năng suất mô phỏng của đậu tương ở Chợ Mới và Tân Châu tương đương nhau (khoảng 3.000 kg ha-1), điều này tương thích với điều tra thực tế ở hai vùng trồng. Mật độ mô phỏng 40.000 cây m-2 cho năng suất tối hảo. Năng suất mô phỏng của vụ Đông Xuân thấp hơn so với Xuân Hè. ở mật độ 30.000 cây ha-1. Năng suất mô phỏng của MTĐ 2600 (3179 kg ha-1) vượt trội hơn Da bò (2860 kg ha-1). Đây cũng là cơ sở để khuyến cáo nông dân trong chọn giống đậu tương để canh tác có năng suất cao.
#CERES-Soybean #mô hình cây trồng #DSSAT #mô phỏng #giống đậu nành
Nghiên cứu nhiệt động học của phản ứng epoxy hóa dầu đậu nành sử dụng hệ xúc tác muối wonframTóm tắt: Đã nghiên cứu động học của phản ứng epoxy hóa dầu đậu nành sử dụng xúc tác trên cơ sở muối wonfram. Quá trình epoxy hóa đã đạt 91% chuyển hóa nối đôi, 87,66% hiệu suất epoxy hóa và hệ xúc tác có độ chọn lọc 0,96. Sản phẩn nhận được sau 1 giờ phản ứng ở 60oC có hàm lượng nhóm oxiran đạt 6,68%. Hằng số tốc độ của phản ứng (k) thực hiện tại các nhiệt độ nằm trong khoảng 0,45 ÷ 1,16×10-2 L.mol-1.s-1 và năng lượng hoạt hóa của phản ứng là 44,26 KJ.mol-1. Các thông số nhiệt động học của các phản ứng epoxy hóa như entanpy (∆H), entropy (∆S) và năng lượng hoạt hóa tự do (∆F) cũng đã được xác định. Cả entanpy và năng lượng hoạt hóa tự do đều dương nên 60oC là nhiệt độ phù hợp cho quá trình epoxy hóa. Sự thay đổi cấu trúc của dầu đậu nành trong quá trình epoxy hóa được nghiên cứu thông qua phổ cộng hưởng từ hạt nhân của dầu đậu nành và dầu đậu nành epoxy hóa.Từ khóa: Xúc tác kim loại, dầu thực vật epoxy hóa, dầu đậu nành, wonfram, động học.
THAY THẾ PROTEIN ĐẬU NÀNH BẰNG PROTEIN RONG BÚN (ENTEROMORPHA SP.) VÀ RONG MỀN (CHLADOPHORACEAE) TRONG THỨC ĂN CHO TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (LITOPENAEUS VANNAMEI) GIỐNGTạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - - Trang 158-165 - 2014
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá việc sử dụng rong bún (Enteromorpha sp.) và rong mền (Cladophoraceae) làm nguồn protein thay thế protein bột đậu nành trong khẩu phần ăn cho hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Thức ăn đối chứng không chứa bột rong biển, được so sánh với 6 thức ăn thí nghiệm, protein bột đậu nành được thay thế bằng protein bột rong bún hoặc protein bột rong mền với các mức tăng dần (20%, 40% và 60%) trong khẩu phần ăn (35% protein và 7% lipid). Thí nghiệm được bố trí trong bể nhựa 100 L ở độ mặn 10?, khối lượng tôm ban đầu là 0,012g với mật độ nuôi là 30 con/bể trong thời gian 45 ngày. Kết quả cho thấy tỉ lệ sống của tôm không bị ảnh hưởng bởi các nghiệm thức thức ăn, dao động 81,1 đến 87,8%. Tốc độ tăng trưởng của tôm ở nghiệm thức thay thế 20% và 40% protein đậu nành bằng protein rong bún hoặc rong mền trong thức ăn, tốt hơn hoặc tương đương so với nhóm tôm ăn thức ăn đối chứng. Tôm được cho ăn thức ăn thay thế 60% có sự sinh trưởng kém hơn. Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê (p>0,05) giữa nghiệm thức đối chứng và các nghiệm thức khác. Thêm vào đó, hệ số tiêu tốn thức ăn và hiệu quả sử dụng protein biểu thị khuynh hướng tương tự với tốc độ tăng trưởng. Kết quả cho thấy protein bột rong bún và protein bột rong mền có thể thay thế protein bột đậu nành đến 40% trong khẩu phần ăn cho tôm thẻ giống.
#Litopenaeus vannamei #Enterormorpha sp. #Cladophoracea #hiệu quả sử dụng thức ăn
Ảnh hưởng thời gian và mức năng lượng siêu âm đến hiệu quả chiết isoflavone từ hạt đậu nànhNghiên cứu này được tiến hành nhằm mục đích khảo sát ảnh hưởng đồng thời của thời gian siêu âm và mức năng lượng siêu âm đến hiệu quả chiết isoflavone từ hạt đậu nành với dung môi ethanol 80% (v/v). Tổng nồng độ isoflavone được xác định bằng 6 chất chuẩn isoflavone: daidzin, glycitin, genistin, daidzein, glycitein và genistein theo phương pháp phân tích sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Qua phân tích ANOVA 2 chiều để đánh giá ảnh hưởng thời gian siêu âm và mức năng lượng siêu âm đến hàm lượng isoflavone thu nhận đã chọn được điều kiện siêu âm là 70% mức năng lượng trong 15 phút. So với phương pháp trích ly bằng chiết khuấy thông thường (ở 30oC và 70oC) và siêu âm-chiết khuấy kết hợp, phương pháp siêu âm có hiệu quả chiết cao hơn phương pháp chiết khuấy ở 30oC nhưng thấp hơn chiết khuấy ở 70oC và siêu âm chiết khuấy kết hợp. Bên cạnh đó, quá trình siêu âm không ảnh hưởng đến hiệu quả bắt gốc tự do DPPH chứng tỏ các hợp chất chiết ra không bị giảm khả năng kháng oxi hóa.
#hạt đậu nành #chiết hỗ trợ siêu âm #isoflavone #mức năng lượng siêu âm #thời gian siêu âm #khả năng bắt gốc tự do DPPH #hoạt tính chống oxi hóa